Ôn thi đại học: Phân tích nhân vật Mị để làm nổi bật sức sống tiềm
tàng.
Xem thêm: Giá trị hiện thực của tác phẩm "Vợ chồng A Phủ"
Giá trị nhân đạo của tác phẩm "Vợ chồng A Phủ"
Giá trị nghệ thuật của tác phẩm "Vợ chồng A Phủ"
Xem thêm: Giá trị hiện thực của tác phẩm "Vợ chồng A Phủ"
Giá trị nhân đạo của tác phẩm "Vợ chồng A Phủ"
Giá trị nghệ thuật của tác phẩm "Vợ chồng A Phủ"
MỞ BÀI:
“Vợ chồng A Phủ” được rút từ
tập “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài viết vào năm 1953 ngay sau chuyến thâm
nhập thực tế tám tháng trời của tác giả. Truyện được tặng giải nhất của hội văn
nghệ Việt Nam
1954 - 1955. Đây là truyện ngắn đặc sắc nhất của Tô Hoài nói riêng và của văn xuôi
chống Pháp nói chung. Tác phẩm là một bức tranh chân thực về cuộc sống và thân
phận khổ đau của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của thế lực
phong kiến thực dân; đồng thời là một bài ca về sức sống, khát vọng tự do của
người người miền núi; là hình ảnh con đường giải phóng và cuộc đổi đời của họ.
Tiêu biểu nhất cho những con người ấy là Mị, một nhân vật mang dấu ấn tài năng
phân tích tâm lý và tư tưởng nhân đạo vừa độc đáo vừa sâu sắc của Tô Hoài.
THÂN BÀI:
I. Thế nào là sức sống tiềm tàng?
Sức sống tiềm tàng là sức sống mãnh liệt ẩn dấu sau cái bề ngoài tác giả
như nhẫn nhục, cam chịu, nhưng khi bị vùi dập thì biết vươn lên trên hoàn cảnh
để hướng tới ánh sáng của khát vọng. Hiểu như vậy, chúng ta thấy Mị trong tác
phẩm này rất tiêu biểu cho sức sống ấy.
II. Cuộc đời Mị trước khi về làm dâu trừ nợ (gạt nợ).
Mở đầu tác phẩm, tác giả Tô Hoài giới thiệu Mị là một cô gái ngồi quay sợi
bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa “lúc nào cũng vậy dù thái cỏ ngựa, dệt vải,
chẻ củi, hay cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.
Đó là hình tượng con người nô lệ bị chà đạp và tuyệt vọng. Nhưng Mị là ai? Con
gái nhà Thống Lý giàu có chăng? Hỏi ra mới biết Mị là con dâu nhà Thống Lý Pá
Tra. Mị vốn là cô gái Mèo con nhà nghèo, nhưng mang đủ những phẩm chất tốt đẹp
của người phụ nữ miền núi. Mị là một cô gái vừa đẹp người, vừa đẹp nết: cần cù,
đảm đang, hiếu thảo, vị tha, ham sống, giàu lòng yêu đời, rất mực tài hoa. Tiếng
sáo của Mị đã có sức lôi cuốn, hấp dẫn đặc biệt đối với biết bao chàng trai
Mèo. Cuộc sống, tuổi thanh xuân, tương lai của Mị hứa hẹn biết bao điều tốt
lành tươi sáng. Và sự thực mùa xuân đến, Mị đã sống những giây phút tươi đẹp của
tuổi trăng rằm, dù trong cảnh nghèo khó.
III. Từ khi về làm con dâu gạt nợ dưới ba tầng áp bức thần
quyền và cường quyền Mị gần như bị tê liệt hết sức sống.
Nhưng tương lai tươi sáng và tuổi trẻ với hạnh phúc tình yêu đã không đến
với cô gái Mèo nghèo khổ đó. Chỉ vì một món nợ truyền kiếp, ngày trước bố mẹ
Mị cưới nhau phải vay nhà Thống Lý Pá Tra và cho đến lúc già, mẹ cô chết, vẫn
chưa trả được mà Mị phải đem thân làm con dâu trừ món nợ ấy cho nhà Thống Lý, một
tên quan lại kiêm địa chủ tham lam xảo quyệt và tàn nhẫn của vùng Hồng Ngài. Kể
từ khi về làm con dâu cho nhà Thống Lý, Mị phải sống những chuỗi ngày đau
thương, tủi nhục, tăm tối. Danh nghĩa là con dâu nhà quan, nhưng thực chất Mị
là một thứ nô lệ không công. Mị không chỉ bị hành hạ về thể xác, mà còn bị đày
đoạ về tinh thần. Đã mấy tháng trời đêm
nào Mị cũng khóc. Cô gái tội nghiệp ấy đã có lúc định tìm đến cái chết bằng nắm
lá ngón. Nhưng có chết thì món nợ vẫn còn. Bố Mị còn khổ hơn bây giờ bao nhiêu
lần. Thế là vì thương bố, Mị không thể chết, Mị liền ném nắm lá ngón như ném
cái khát vọng được giải thoát cho riêng mình và Mị đành trở về cuộc đời nô lệ để
trả nợ cho bố. Dưới mấy tầng áp bức của cường quyền, thân quyền và hủ tục phong
kiến miền núi, Mị phải sống kiếp sống như con vật, thậm chí không bằng con vật
“Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, tưởng mình là con ngựa, là con ngựa
phải đổi ở các tàu ngựa nhà này đến tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ,
biết đi làm mà thôi.Lúc nào Mị cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, nối
tiếp nhau vẽ ra trước mắt. Mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng làm đi làm lại: “Tết xong
thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì đi nương bẻ bắp. Suốt năm suốt đời
như thế. Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân nhai cỏ,
đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu vào việc làm cả ngày cả đêm”. Những ngày
tết A Sử đi chơi, Mị còn bị trói đứng trong buồng tối thế mà liền đấy, vừa mới
được cởi trói, thì cô phải đi hái thuốc lá về xoa bóp cho chồng. Nhỡ mệt thiếp
đi, thì A Sử lấy chân đạp thẳng vào mặt Mị. Thật không ở đâu mạng sống và nhân
phẩm con người bị coi rẻ như vậy.
Bị giam hãm, đoạ đầy trong địa ngục
khủng khiếp của nhà Thống Lý, Mị như bông hoa rừng đang tàn phai theo năm
tháng. Người con gái tài hoa trẻ đẹp, ham sống, yêu đời thuở nào, giờ chỉ còn
là người đàn bà thân xác héo khô, tâm hồn lạnh lẽo, trống vắng. Con người ta
thường tồn tại trong ba quan hệ thời gian, không gian và giao tiếp. Ba quan hệ ấy
đối với Mị dường như đã bị triệt tiêu. Mị mất hết ý thức về thời gian, sự chuyển
biến thời gian sớm hay tối đối với Mị chẳng có ý nghĩa gì nữa: không dĩ vãng,
không hiện tại, không cả tương lai. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen với cái khổ rồi.
Mị ngày càng không nói, lùi lũi như con ma trong xó cửa. Cuộc đời Mị chỉ còn
thu nhỏ lại qua cái ô cửa sổ bàn tay mờ mờ, trăng trắng không biết sương hay nắng.
Nó cũng mờ đục tăm tối như số phận tâm hồn Mị vậy. Mị hầu như mắt hết cả ý thức
về bản thân và những mong muốn đổi thay cho số phận mình. Thậm chí Mị cũng
không có cả ý nghĩ về cái chết nữa.
IV. Sự trỗi dậy mãnh liệt của lòng ham sống và khát vọng hạnh
phúc tình yêu tự do ở Mị.
Nhưng phải chăng tâm hồn cô gái Mèo trẻ đẹp tài hoa, yêu đời thuở nào giờ
đây đã hoàn toàn nguội lạnh, băng giá, cam chịu thân phận nô lệ và hoàn toàn tê
liệt? Không! Ngòi bút giàu chất thơ và tinh thần nhân đạo của Tô Hoài, do tiếp
thu được tư tưởng nhân đạo của các nhà văn lớp trước như Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố,
Nam Cao, không chỉ mô tả được thấm thía cái mặt tăm tối, ảm đạm của cuộc đời Mị,
mà còn tha thiết hướng về phía sự sống và ánh sáng để khơi gợi nó lên. Nhà văn
đã nhìn thấy được dưới đáy tâm hồn tưởng như tê liệt vì khổ đau của Mị vẫn còn
le lói ánh sáng và hơi ấm của niềm ham sống, khát khao hạnh phúc và tự do. Niềm
ham sống ấy như ngọn lửa vẫn âm ỉ cháy dưới lớp tro nguội, chỉ cần có một lần
gió thổi tới là có thể cháy bùng lên.
Mùa xuân về trên vùng núi cao Tây Bắc có ý nghĩa như một hoàn cảnh điển
hình làm gợi dậy ở con người và thiên nhiên sức sống tiềm tàng. Sự sống, cảnh vật
và con người như được mùa xuân đánh thức cho bừng tỉnh. Và thời điểm để ngọn lửa
ham sống trong lòng Mị bùng lên đã đến. Đấy là “một đêm tình mùa xuân”.
Tiếng khèn, tiếng sáo của trai làng gọi bạn tình cứ tha thiết bồi hồi. Tai Mị cứ
văng vẳng tiếng sáo. Với Mị, tiếng sáo là biểu tượng lôi cuốn nhất của khát vọng,
tình yêu hạnh phúc. “Ngày trước Mị thổi sáo giỏi. Mị uốn chiếc lá trên môi,
thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê”. Cái nồng nàn của
đêm xuân lại được tăng lên bởi bữa rượu ngày tết, trong tiếng chiêng đánh ầm ĩ
và người lên đồng, người hát, “Ngày tết, Mị uống rượu, Mị lén lấy hũ rượu cứ
uống ực từng bát rồi say”. Cách uống
rượu của Mị như báo hiệu một hành động nổi loạn của nhân vật. Và chính trong trạng
thái dễ bị kích thích bởi men rượu, bởi những âm thanh náo động của bữa cơm
cúng ma trong nhà Thống Lý Pá Tra và tiếng gọi lôi cuốn của tiếng sáo gọi bạn
tình, Mị đã vượt ra khỏi con người thể xác, khỏi tâm trạng thờ ơ nguội lạnh bấy
lâu nay của lòng mình, để hướng tới khát vọng đẹp đẽ.
1. Tâm lý 1:
Dấu hiệu đầu tiên là Mị sống lại với những kỉ niệm êm đẹp ngày trước, những
ngày hạnh phúc, êm đềm vô tư của tuổi trẻ với những bữa rượu bên bếp lửa ấm
cúng, với những tiếng sáo dìu dặt của trai làng bao đêm theo Mị hết núi này đến
núi khác.
2. Tâm lý 2:
Tiến thêm một bước nữa, Mị trở lại niềm vui sống trong chốc lát. ở đây dường
như Tô Hoài đã hoá thân vào nhân vật để trần thuật, suy nghĩ tạo nên thứ ngôn
ngữ nửa (bản) trực tiếp rất hấp dẫn: “Mị thấy phơi phới trở lại. Mị trẻ lắm,
Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi”.
3. Tâm lý 3:
Lòng ham sống của Mị trỗi dậy mãnh liệt không thể dập tắt được rồi! Ý nghĩ
tiếp theo của Mị là “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết
ngay!”. Phản ứng ấy chứng tỏ Mị đã ý thức được hoàn cảnh đau khổ tủi nhục
triền miên của đời Mị hiện tại. Dường như Mị không muốn chấp nhận cuộc sống lầm
than tủi nhục, vô nghĩa như kiếp sống của một con vật nữa. Trong khi đó, tiếng
sáo gọi bạn tình, biểu tượng của sự sống, hạnh phúc tình yêu tự do bấy lâu nay
Mị dường như đã quên rồi ngân lên thôi thúc. Tiếng sáo đó cũng là hiện thân tâm
hồn Mị cứ theo sát từng bước diễn biến tâm trạng của cô. Nó chính là ngọn gió
trực tiếp làm thổi bùng lên ngọn lửa ham sống
trong lòng Mị
Hành động: Sức sống trỗi dậy
của tâm hồn Mị như những đợt sống ào ạt, đợt sau mạnh mẽ hơn đợt trước. Từ những
sục sôi trong tâm trí, Mị đã đi đến hành động.
Hành động 1: “Mị đến góc nhà lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa
đèn cho sáng”. Có thể xem đây là một hành động thức tỉnh. Phải chăng Mị đã
thắp lại ngọn lửa của lòng ham sống soi tỏ vào hiện tại để tìm một lối thoát
cho tương lai?
Hành động 2: Và hành động này thúc đẩy hành động khác tiếp theo như một
phản ứng dây chuyền không thể nào ngắn lại được nữa. Hình như không đếm xỉa gì
đến những xiềng xích tàn bạo của nhà Thống Lý Pá Tra, Mị đã tự mình hành động
như một người tự do, đi theo tiếng gọi của lòng mình. “Mị quấn lại
tóc với tay lấy cái váy hoa sửa soạn đi chơi ngày tết”. Giữa lúc lòng ham sống
trỗi dậy một cách mạnh liệt nhất thì cũng là lúc Mị bị vùi dập một cách phũ
phàng nhất. A Sử, chồng Mị bước vào thản nhiên trói đứng Mị vào cột nhà. Suốt
đêm bị trói ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé mạnh mẽ giữa niềm khát khao sống,
khát khao hạnh phúc cháy bỏng và thực tại khắc nghiệt lạnh lùng. “Như không
biết mình đang bị trói, Mị vẫn thả hồn lâng lâng theo tiếng tiếng sáo của tuổi
trẻ và tình yêu”. Quên những đau đớn về thể xác, “Mị đã vùng bước đi”.
Điều đó chứng tỏ sức sống tiềm tàng trong con người Mị dữ dội biết nhường nào.
Hành động 3: Hành động cởi trói
Những phút trỗi dậy ấy có ý nghĩa
thức tỉnh. Từ đây hình như Mị đã trở lại
là mình. Thời gian trôi đi, rồi một đêm kia Mị được chứng kiến cảnh A Phủ bị
trói một cách thảm khốc. Lúc đầu tâm hồn Mị như khép kín, không phản ứng gì.
Nào phải đâu Mị là con người nhẫn tâm? Chỉ vì những hành động tội ác trong nhà
Pá Tra là chuyện xảy ra hàngh ngày. Vả chăng, Mị cũng là một nạn nhân bất lực
mà thôi.
- Nhưng đêm nay dưới ánh lửa "bập
bùng", “Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống 2 hõm má đã sạm đen lại”
vì khổ đau và tuyệt vọng của A Phủ đã khơi dậy trong tâm hồn Mị niềm cảm thông
sâu sắc của những con người cùng cảnh ngộ. Càng thương mình, càng thương người
“chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này thì chỉ đêm mai là người kia chết, chết
đau, chết rét, phải chết”. Và cũng như lần trước, mỗi khi sức sống trỗi dậy,
Mị lại nghĩ đến cái chết. Song lần này là cái chết oan nghiệt vô lý của người
khác: A Phủ “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình con ma nhà nó rồi thì
chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi, người kia việc gì phải chết thế. Mị
không thể dửng dưng câm lặng được nữa. Tình thương đã lấn át cả nỗi sợ và cao
hơn cả cái chết, sẵn sàng thế mạng cho A Phủ. Đó là giây phút tuyệt đẹp trong đời
Mị. Cô đã trở thành con người cao thượng có tấm lòng cao cả. Mị đã đi đến một
hành động thật táo bạo: cắt dây trói giải thoát cho A Phủ”. Hành động này
tuy không đoán trước được, nhưng hoàn toàn không ngẫu nhiên chút nào. Con người
đa từng dám chết để giải thoát cho mình, từng sẵn sàng cam chịu thân phận trâu
ngựa để trừ nợ cho bố, thì sao không dám chết để cứu một người vô tội?
Khi thấy A Phủ chạy rồi cùng với nỗi sợ ùa đến khát vọng tự do, lòng ham
sống cũng đã bừng tỉnh trong Mị. Mị phải sống “A Phủ cho tôi đi! Ở đây thì
chết mất”. Thế là “Mị vụt chạy băng đi”. Giải thoát cho A Phủ, Mị
cũng tự giải thoát luôn cho chính mình, cắt đứt những sợi dây vô hình đã cột chặt
đời cô vào chuỗi ngày tủi nhục trong nhà ngục Thống Lý Pá Tra. Đây là một hành
động tự phát, nhưng nó là kết quả phát triển tất yếu của cả quá trình sức sống
tiềm tàng trỗi dậy không ngừng trong tâm hồn Mị. Từ trong cái địa ngục giam cầm,
đầy đoạ mình bao nhiêu năm trời, Mị đã vùng
lên tìm lẽ sống, làm lại cuộc đời. Nhà văn Tô Hoài đã mô tả quá trình diễn biến
tâm lý và hành động của Mị rất tự nhiên, sinh động, vừa bất ngờ, vừa tất yếu,
phù hợp với quy luật cuộc sống. Vì vậy có thể nói “Mị là nhân vật thành công bậc
nhất trong văn xuôi Cách Mạng đương đại Việt Nam.
KẾT LUẬN:
Vẻ đẹp rực rỡ, sức thu hút mạnh mẽ
của nhân vật Mị đối với người đọc xưa nay chính là ở phẩm chất cao đẹp, đặc biệt
là sức sống tiềm tàng ấy. Đọc “Vợ chồng A
Phủ”, mỗi độc giả chúng ta ai cũng nhớ cũng thương, cũng quý môt cô Mị
trong đoạ đầy như vậy mà vẫn luôn luôn khát khao vươn lên cuộc sống hạnh phúc tự
do, để càng yêu hơn một cô Mị du kích Phiềng Sa sau này.
(Những bàn
chân từ than bùn, lầy bụi đã bước tới mặt trời Cách Mạng - Tố Hữu)
Đăng nhận xét