TopBanner

 

Luyện thi đại học môn văn: Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" của nhà văn Tô Hoài

Xem thêm:  Giá trị hiện thực của tác phẩm "Vợ chồng A Phủ"
                     Giá trị nhân đạo của tác phẩm "Vợ chồng A Phủ"
                     Giá trị nghệ thuật của tác phẩm "Vợ chồng A Phủ"

            “Vợ chồng A Phủ là một trong ba truyện ngắn của tập “Truyện Tây Bắc” được Tô Hoài sáng tác 1953. Truyện kể về hai chặng đường đời của Mị và A Phủ những ngày ở Hồng Ngài trong nhà thống lý Pá Tra và sau khi sang Phiềng Sa nên vợ nên chồng, gặp gỡ Cách Mạng và trở thành chiến sĩ du kích. Trong đó, A Phủ là một nhân vật gây ấn tượng khá sâu sắc.

Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm "Vợ chồng A Phủ"


1. Lai Lịch
Tác giả cho A Phủ xuất hiện khá đột ngột trong một hoàn cảnh là cuộc đánh nhau với A Sử, bị bắt bị đánh đập tàn nhẫn ở nhà thống lý Pá Tra rồi mới kể về lai lịch của nhân vật. Đó là một người nghèo khổ đã mất hết cả cha mẹ và anh em trong một trận dịch đậu mùa khủng khiếp đã phải sống kiếp bơ vơ khi còn rất nhỏ và “người làng đói bụng đã bắt A Phủ đưa xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng” Không cam chịu cuộc sống khốn khổ, mới mười tuổi đầu, A Phủ đã tự khẳng định tính cách gan góc: Một mình kiếm sống, học hỏi đủ thứ nghề “biết đúc lưỡi cày, cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”. Khi lớn lên, A Phủ chẳng những hiền lành, lao động giỏi mà còn có sức khoẻ hơn người “Công việc làm, hay đi săn, cái gì cũng làm phăng phăng”.
A Phủ chạy nhanh như ngựa”, vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt, A Phủ vẫn sống một đời sống tâm hồn phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, yêu chính nghĩa, tự tin của tuổi trẻ “đang tuổi chơi, trong ngày tết đến, dù chẳng có quần áo mới như trai làng khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng trên cổ, A Phủ cũng cứ cùng trai làng đem sáo, kèn, con quay và của Dao đi tìm người yêu ở các làng trong rừng “. Vì vậy A Phủ đã trở thành niềm mơ ước của biết bao cô gái Mèo. Họ kháo với nhau “đứa nào được A Phủ cũng bằng có được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. Tuy vậy, với tập tục khắc nghiệt của xã hội phong kiến miền núi đương thời, A Phủ chẳng những bị khinh thường mà thực tế cũng chẳng bao giờ anh kiếm đủ tiền để làm nhà và cưới vợ.
2. Đau khổ hơn A Phủ là đứa con của núi rừng tự do mà vẫn không sao thoát khỏi kiếp sống nô lệ. Sự việc xảy ra vào đêm hội mùa xuân A Phủ dám đánh lại con nhà quan phá đám chơi “chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Nó vừa kịp bưng tay lên, A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo giật đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”. Hành động dữ dội đó của A Phủ có nguyên cớ sâu xa là mối hận thù giai cấp. Sau đó, bị tay chân nhà Pá Tra  đánh đập rất dã ma, A Phủ đã chứng tỏ mình là con ngừơi bất khuất, cứng rắn, gan dạ. A Phủ không hề khóc lóc van xin, trái lại “A Phủ quỳ chịu đòn, chỉ im như tượng đá”. Cuối cùng trong cảnh xử kiện quái gở khi kẻ phát đơn kiện cũng là người ngồi ghế quan toà, A Phủ đã bị Pá Tra buộc làm nô lệ không công suốt đời để từ nợ. Đó là kiếp sống bị khinh rẻ, bị ngược đãi và những công việc nặng nhọc nguy hiểm như cày ruộng, cuốc nương và săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò bãi, nương rừng.
3. Tính mạng A Phủ sống hay chết cũng được quyết định bởi bàn tay tàn bạo của thống lý Pá Tra.
Chỉ vì để hổ bắt mất bò. A Phủ đã bị đánh, bị trói vào cọc “bằng dây mây quần từ chân lên vai”. Và nếu bọn A Sử không bắt được hổ về thì chắc chắn A Phủ sẽ phải chết “chết đau, chết đói, chết rét” như Mị từng chứng kiến những cảnh tương tự.
=> Miêu tả cuộc sống khổ cực đau thương, tủi nhục của A Phủ, Tô Hoài một mặt vừa bày tỏ niềm đồng cảm xót thương đối với thân phận khổ đau của người lao động miền núi, một mặt khác vừa để vạch trần tội ác tàn bạo dã man của bọn chúa đất đã vùi dập không tiếc thương sự sống của người lao động.
4. Tuy vậy với khát vọng sống mãnh liệt, bản chất gan góc, bất khuất sẵn có, A Phủ không cam chịu chết mà tìm mọi cách tự giải thoát “Đêm đến, A Phủ cúi xuống nhay đứt hai đầu dây, nhích dần dây trói một bên tay” và với sự trợ giúp của Mị, A Phủ đã được tự do. Hai người trốn khỏi Hồng Ngài, tới khu du kích Phiềng Sa, gặp cán bộ A Châu. A Phủ Mị lần lượt trở thành chiến sĩ du kích, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh để giải phóng hoàn toàn cuộc đời mình, giải phóng bản làng, quê hương, từ đấu tranh tự phát, A Phủ và Mị đã tiến dần đến cuộc đấu tranh tự giác. Và cuộc đời A Phủ đi từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui.
Cùng với Mị, cuộc đời và tính cách của A Phủ có ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và phẩm chất người dân vùng cao Tây Bắc. Từ trong bóng tối của cuộc đời đầy đau khổ tủi nhục, họ đã vươn tới ánh sáng rực rỡ của nhân phẩm tự do, ánh sáng của Cách Mạng. Đây cũng chính là giá trị nhân đạo mới mẻ sâu sắc của tác phẩm giàu chất thơ này.

Đăng nhận xét

 
Top