Luyện thi đại học: Vì sao chị em Liên đêm đêm cố thức để đợi chuyến tàu đêm vụt qua phố
huyện? Ý nghĩa?
Bài Làm
Thạch Lam (1910 – 1942) là một trong
những cây bút truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam của thế kỉ XX. Truyện của ông
là những chuyện tâm tình. Đằng sau những trang truyện đậm chất thơ, ta vẫn thấy
thấp thoáng hình ảnh tác giả, đó là một con người có tâm hồn đôn hậu, tinh tế,
rất nhạy cảm đối với mọi biến thái tinh vi của lòng người và tạo vật. Qua “…”
chúng ta cũng có thể thấy rõ điều đó (“…” tuỳ vào từng đề).
1. Một bức tranh quê đầy chất thơ.
“Hai
đứa trẻ” là một truyện ngắn đơn giản hầu như không có chuyện. Truyện chỉ kể
lại hình ảnh hai đứa trẻ ngồi trên chiếc chõng nát ngắm nhìn phố xá chìm dần
vào đêm tối, tuy đã buồn ngủ díp mắt nhưng vẫn cố thức để đợi chuyến tàu đêm đấy
ánh sáng vụt qua rồi mới khép cửa hàng đi ngủ. Cậu chuyện đơn sơ như vậy sẽ làm
thất vọng những ai đi tìm cốt chuyện giàu kịch tính với những chi tiết li kì, lắt
léo. Tuy nhiên, dưới ngòi bút Thạch Lam, “Hai
đứa trẻ” không hề nhạt nhẽo, trái lại rất ám ảnh, thấm thía, đầy dư vị.
Tác phẩm mở đầu bằng một bức tranh
chiều quê phố huyện sinh động như một bài thơ về quê hương quen thuộc mà rất
thi vị: “Chiều chiều rồi! Một chiều êm ả
như ru”. Lời văn rất nhẹ nhàng, nhịp văn êm ái đã đưa con người vào thế giới
thanh bình của cảnh vật. Ngòi bút tinh tế và tạo hình của Thạch Lam chỉ chấm
phá vài nét mà đã vẽ được một bức tranh rất sinh động với đủ đường nét, màu sắc,
âm thanh, hương vị “phương Tây đỏ rực…và
những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn trong lò. Dãy tre làng trước mắt
đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Giữa những hình ảnh sinh động của
cảnh vật vang lên âm thanh “tiếng trống
thu không” gọi buổi chiều xen lẫn với tiếng “ếch nhái kêu ran ngoài đồng theo làn gió nhẹ đưa vào”, “muỗi bắt đầu vo ve”, “đom đóm bay nhấp nháy”, “hoa bàng rụng khẽ”… chỉ bằng mấy câu văn
ngắn gọn, Thạch Lam đã đưa độc giả trở về khung cảnh đầy linh hồn, thân thiết của
quê hương, làng mạc, của nông thôn Việt Nam muôn đời. Nó khơi gợi trong tâm hồn
con người một tình cảm gắn bó thiết tha với miền quê lam lũ. Nơi ấy không chỉ
có những cảnh sắc thanh bình, thơ mộng, êm đềm mà còn có cả những mảng đời lam
lũ, tăm tối.
2. Tâm trạng của chị em Liên trước bức tranh
chân thực về đời sống phố huyện nghèo lúc chiều tối.
Vì thế “Hai đứa trẻ” ngoài mở ra bức tranh thiên nhiên còn đi sâu vào tái
hiện bức tranh chân thực về đời sống phố huyện nghèo và chỉ qua bức tranh đó,
ngòi bút nhân đạo, cái nhìn tinh tế, nhạy cảm của Thạch Lam mới có dịp phát huy
đầy đủ nhất.
Cuộc sống con người phố huyện trong
thế giới “chìm chìm, nhạt nhạt” và vắng
lặng của buổi chiều tối được dựng lên bằng những nét kí hoạ rất đỗi chân thực
và được nhà văn gửi gắm qua cái nhìn ngây thơ của chị em Liên. Trong con mắt của
hai đứa trẻ, từ cảnh vật cho đến cảnh sinh hoạt nơi phố huyện, đâu đâu cũng gợi
lên sự tàn tạ, quẩn quanh, bế tắc.
a/ Mở đầu là khung cảnh ngày tàn.
Sự tàn tạ được cảm nhận bắt đầu bằng
một hình ảnh: một buổi chiều tà, khoảng thời gian vốn dễ khơi dậy nhiều nỗi niềm
trong tâm hồn con người. Buổi chiều quê lặng lẽ khép lại bằng “tiếng trống thu không” báo hiệu ngày
tàn. Những ánh sáng yếu ớt của thiên nhiên rồi cũng tắt dần. Thời điểm hoàng
hôn đã trở thành khoảng thời gian đặc biệt gắn bó với văn chương. Khoảnh khắc
giao thoa giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sự sống náo nhiệt và sự yên lặng lụi
tàn luôn gây cho lòng người nỗi buồn thấm thía. Xuân Diệu, thi sĩ của những vần
thơ xôn xao, rạo rực xuân tình, đắm say cảnh sắc cũng đã hơn một lần cảm thấy “không
gì buồn bằng những buổi chiều; mà ánh sáng hoà cùng bóng tối”… “không gian tưởng sắp tàn thành lệ”.
b/ Cảnh chợ cũng tàn.
Cái buồn của hình ảnh chiều tàn ở
đây dường như được cộng hưởng, được nhân lên với hình ảnh của một buổi chợ tàn
“chợ họp giữa phố huyện vắng từ lâu. Người
về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi: vỏ bưởi, vỏ thị, lá
nhãn, lá mía…”. Không khí náo nhiệt, nhộn nhịp người mua kẻ bán đã lắng xuống,
chỉ còn lại sự trống vắng quạnh hiu. Có gì vui hơn là cảnh chợ đông, có gì buồn
hơn là cảnh chợ tàn?
Giữa khung cảnh chợ tàn ấy, tâm hồn
nhạy cảm của Liên đã nhận ra thứ mùi vị rất riêng của xứ sở “cái
mùi cát bụi quen thuộc quá mà Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương
này”. Chính là mùi vị quen thuộc của nghèo khổ, lầm than, bế tắc. Hiện thực
cuộc sống trong tác phẩm của Thạch Lam không phải là sự cày xới ngổn ngang những
mảnh đời đau thương, bi đát, quằn quại như cuộc đời nhân vật của Nam Cao, Ngô Tất
Tố… Hiện thực trong tác phẩm của Thạch Lam được thể hiện qua những chi tiết
bình thường, giản dị như trên nhưng lại có sức ám ảnh đặc biệt cho tâm hồn người
đọc.
c/ Bức tranh về kiếp người tàn.
Đi liền với hình ảnh chiều tàn, chợ
tàn là hình ảnh những kiếp người tàn như là linh hồn, là đỉnh cao cảnh quan bức
tranh chân thực về đời sống ở phố huyện nghèo. Trong khung cảnh chiều tàn, phố
huyện tiêu điều sau phiên chợ vãn người, cuộc sống sinh hoạt vất vả, đơn điệu của
những người dân nghèo khổ lam lũ hiện lên đáng thương biết bao.
Đó là mấy đứa trẻ con nhà nghèo ven
chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi “chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ thứ gì có thể dùng được
của người bán hàng để lại”. Hình ảnh những đứa trẻ con ngây thơ cúi đầu tìm
kiếm những vật dụng nhỏ nhoi vô nghĩa lý đem lại cho người đọc cảm nhận: dường
như gánh nặng cuộc đời cũng đang đè nặng lên đôi vai chúng. Cái vô tư, hồn
nhiên, tinh nghịch vốn có ở những đứa trẻ đã sớm mất đi bởi đời sống khốn khổ,
tàn tạ nơi phố huyện.
Đó là chị Tý “đi mò cua bắt tép, tối đến chị mới dọn cái hàng nước”. Cái cửa hàng
của chị cũng nghèo nàn như cuộc đời của chị. Nó chỉ là một cái chõng tre, một
tí đồ điếu đóm, tất thảy vừa một chuyến đầy xách tay của chị và thằng cu bé “chả kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào chị
cũng dọn hàng từ chập tối cho đến đêm”.
Cùng với số phận của chị Tý là số phận
của bác phở Siêu với gánh hàng phở leo lét ánh lửa. Đó là thứ hàng dù ngon
nhưng “là một thứ qùa xa xỉ” với người
dân phố huyện cho nên “bóng bác mênh mang
ngả xuống đất, kéo dài đổ xuống đất”. Sự kéo dài của cái bóng dường như
cũng là sự kéo dài của nỗi buồn, sự bế tắc tàn tạ trong cuộc đời bác.
+) Gia đình bác xẩm:
“Ngồi
trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để trước mặt… thằng con bò ra đất, nghịch
nhặt những rác rưởi vùi trong cát bên đường”, thoang thoáng “mấy tiếng đàn bầu bật trong yên lặng”
càng gợi lên cảm giác đơn điệu hiu hắt.
+) Hai chị em Liên:
Với “cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu mẹ dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê ở
vì thầy Liên mất việc”, hôm nay là phiên chợ mà bán hàng cũng chẳng ăn thua
gì, cô trở thành người con gái đảm đang và dường như phải sớm lo toan, già đi
trước tuổi.
Hình ảnh bà cụ Thi nghiện rượu, hơi
điên với dáng đi lảo đảo lẫn vào bóng tối và tiếng cười khanh khách. Đó có lẽ
là tiếng cười duy nhất của các nhân vật trong tuyện. Nhưng tiếng cười ấy không
mang lại cho mọi người cảm giác vui lây. Trái lại, nó gây cho Liên sự sợ hãi. Bởi
trong tiếng cười ấy dồn nén, chất chứa bao nỗi đắng cay, tủi nhục, bế tắc. Vì vậy,
bà cụ Thi là hiện thân của kiếp người tàn.
Đi vào những số phận nhỏ bé, những
cuộc đời thường của người dân trên phố huyện, Thạch Lam đã nhóm lên ở đó chất
thơ của đời thường, chất thơ của lòng trắc ẩn, của sự đồng cảm, chia sẻ nhân đạo.
d/ Tâm trạng của chị em Liên trước
bức tranh đêm tối mênh mông của đất trời phố huyện.
+) Bóng tối làm chủ tất cả.
Khi ánh chiều đã tắt thì bóng tối ập
xuống. Tâm trạng của chị em Liên lại xoay quanh cái quầng sáng thu nhỏ xung
quanh ngọn đèn con trên chõng hàng nước ế ẩm của chị Tý.
Cả phố huyện giờ chỉ thu nhỏ vào cái
ngọn đèn con leo lắt ấy, còn xung quanh, bóng tối làm chủ tất cả “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con
đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”, bên cạnh
có gánh phở bác Siêu, ngọn đèn Hoa Kỳ vặn nhỏ của Liên… Tất cả mấy đốm sáng, hột
sáng thưa thớt tù mù. Những hột sáng nhỏ nhoi ấy chẳng thể khiến cho đêm tối
thêm mịt mùng dày đặc.
Một nhịp sống quẩn quanh, đơn điệu,
bế tắc trong bóng tối ấy là những cuộc đời bóng tối quẩn quanh, bế tắc. Hình ảnh
ngọn đèn con của chị Tý chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ được nhắc đi nhắc lại
nhiều lần là một hình ảnh có sức gợi tả đặc biệt. Hình ảnh ấy có ý nghĩa như một
biểu tượng về kiếp người nhỏ bé, vô danh, vô nghĩa, sống leo lắt trong đêm tối
mênh mông của xã hội cũ không có hạnh phúc, không có tương lai. Hình ảnh ấy
cũng gợi về nhịp sống lặp đi lặp lại một cách uể oải, đơn điệu, buồn chán, bế tắc
ngày này sang ngày khác không có gì thay đổi. Đúng như Tố Hữu đã viết:
“Giữa dòng ngày tháng âm u đó
Không
đổi nhưng mà trôi cứ trôi”
Những người dân nghèo khổ trong cảnh
ấy vẫn mơ hồ bâng quơ “mong đợi cái gì đó
tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. “Một cái gì đó” là cái gì vậy? Rất mông lung, mơ hồ, điều đó càng
nói lên tình cảnh tội nghiệp của những người sống mà không biết cuộc sống của
mình ra sao (Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn nhưng có nhiều trang rất hiện thực.
Bức tranh đời sống nghèo nói trên là một trong những trang tiêu biểu nhất. Nó
đã nói lên được một cách thấm thía và ám ảnh tình trạng cuộc sống âm u, mòn mỏi,
bế tắc của người dân nghèo, đồng thời bày tỏ tấm lòng xót thương bao la của tác
giả đối với những kiếp người sống tù mù ấy. Đó là nguyên nhân nảy sinh tâm trạng
của Liên.
+) Chính số phận quẩn quanh, bế tắc
của những kiếp người tàn, bức tranh của ngày tàn đã như thấm thía vào tâm hồn
ngây thơ của Liên , gây cho Liên một nỗi buồn man mác.
+) Liên hồi tưởng về kỉ niệm tuổi
thơ tươi sáng trước đây ở Hà Nội . Liên và An ngửi thấy mùi phở thơm và nhớ lại
khi ở Hà Nội “chị được hưởng những thứ
quà ngon lạ như thế… được đi chơi Bờ Hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”.
Liên bâng khuâng nhớ về “Hà Nội nhiều đèn
quá, tạo nên một vùng sáng rực và lấp lánh”. Nhưng giờ đây, ánh sáng ấy chỉ
là bóng mờ kí ức trong đêm.
+) Và trong bóng bối cảnh của bức
tranh phố huyện tối tăm, tù túng vốn là người có trái tim rất nhạy cảm nên Liên
đã để lại cho tâm hồn mình vượt ra khỏi hiện thực ngột ngạt, vươn tới một giấc
mơ, một khát vọng khác với cảnh sống nghèo nàn, tăm tối, bế tắc hiện tại. Liên
ngồi chờ đợi đoàn tàu, không phải để đi bán hàng, không phải vì nhu cầu vật chất,
không mong gì ai mua mà vì một lí do khác “muốn
được nhìn chuyến tàu, đó là hoạt động cuối cùng trong đêm”. Nghĩa là Liên khát
khao một sự đổi thay, khao khát một cái gì khác thường khuấy động cái không khí
đơn điệu, buồn tẻ, quẩn quanh, tù túng, lụi tắt dần trong đêm tối. Thực chất đó
là nhu cầu khát vọng về tinh thần, nhu cầu được sống dù trong khoảnh khắc cùng
một thế giới “với tiếng còi rít lên, tàu
chạy rầm rộ với những toa tàu sang trọng đèn điện sáng trưng. Trong đó có những
con người gợi về Hà Nội huyên náo và vui vẻ”. Con tàu như đem một chút thế
giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn
đèn chị Tý và ánh lửa bác Siêu leo lắt giữa cái đêm tối mênh mông của đất trời
phố huyện.
+) Niềm vui sướng duy nhất chờ đợi
trong một ngày đã đi qua nhanh chóng, phố huyện lại chìm đi trong đêm tối. Liên
càng cảm thấy buồn hơn khi trở về với hiện tại. Trong giấc mơ chập chờn, cô bé
phố huyện như cảm thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết, như chiếc
đèn con của chị Tý chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ.
* Tác phẩm giàu tính nhân đạo.
+) Qua tâm trạng của chị em Liên, Thạch
Lam muốn bộc lộ những ý nghĩ kín đáo, nhẹ nhàng nhưng thấm thía biết bao cho
tâm hồn người đọc. Đó là tác giả muốn bày tỏ nỗi niềm xót thương đối với những
kiếp người nhỏ bé vô danh, không bao giờ biết đến ánh sáng hạnh phúc. Trong xã
hội cũ, có biết bao con người như thế. Họ phải sống cuộc đời tẻ nhạt vô nghĩa,
đến trong mơ cũng không biết mơ gì hơn một chuyến tàu đêm vụt qua phố huyện
tiêu điều, lụi tắt của cuộc đời mình. Cuộc sống của họ cũng sẽ “mốc lên, rỉ đi, mòn ra, mục rữa” trong
tăm tối đói ngèo, buồn chán nơi phố huyện và nơi đất nước lầm than nô lệ.
+) Qua đó Thạch Lam đồng thời cũng
muốn đánh thức, lay tỉnh những tâm hồn đang uể oải, lụi tàn ngọn lửa của lòng
khát khao được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, khao khát được thoát ra khỏi
cuộc sống tăm tối, tù đọng, mòn mỏi đang muốn chôn vùi họ.
Kết
bài:
Phải có sự thức tỉnh của cái “tôi” mới có được niềm thương và sự lay
tỉnh đáng quý ấy. Khép trang sách lại, ta cứ phảng phất nỗi buồn thương sầu nặng
về thân phận con người. Phải chăng điều đó đúng với chức năng văn chương, ánh
lên vẻ đẹp về khát vọng muôn thuở của con người, vẻ đẹp nhân văn.
Đăng nhận xét